TIỀM NĂNG NĂNG LƯỢNG GIÓ VÀ NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI

TIỀM NĂNG NĂNG LƯỢNG GIÓ VÀ NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI

10:08 - 11/01/2020

Theo báo cáo của Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng điện 3 (PECC3), tiềm năng năng lượng gió tại độ cao 80m của Việt Nam có vận tốc trung bình năm lớn hơn 6 m/s là khoảng 10.637 MW, với diện tích khoảng 2.659 km2, tương đương khoảng 0,8% diện tích cả nước. PECC3 cho rằng khu vực này mới khả thi về tài chính. Còn theo GreenID tiềm năng kỹ thuật của năng lượng gió ở Việt Nam là khoảng 27.750 MW

TRIỂN LÃM QUỐC TẾ NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI VIỆT NAM 2019-VIETMAM SOLAR POWER EXPO 2019
BÌNH THUẬN SẼ LÀ TRUNG TÂM ĐIỆN GIÓ, ĐIỆN MẶT TRỜI LỚN NHẤT CẢ NƯỚC
Quảng Trị: Thêm gần 5.000 tỷ đồng đầu tư vào 3 dự án điện gió
Đồng Nai đề xuất bổ sung 8 dự án điện mặt trời vào quy hoạch
Xây dựng Bạc Liêu trở thành trung tâm năng lượng sạch của cả nước

Nguồn năng lượng gió

Theo báo cáo của Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng điện 3 (PECC3), tiềm năng năng lượng gió tại độ cao 80m của Việt Nam có vận tốc trung bình năm lớn hơn 6 m/s là khoảng 10.637 MW, với diện tích khoảng 2.659 km2, tương đương khoảng 0,8% diện tích cả nước. PECC3 cho rằng khu vực này mới khả thi về tài chính. Còn theo GreenID tiềm năng kỹ thuật của năng lượng gió ở Việt Nam là khoảng 27.750 MW

Bộ Công thương (MoIT) với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, đã tiến hành mô hình đo gió tại ba điểm lựa chọn, góp phần vào việc xác định lại tiềm năng gió ở Việt Nam (2007). Các kết quả của nghiên cứu này cùng với số liệu khác đã được MoIT sử dụng để cập nhật bản đồ gió cho Việt Nam. Kết quả đánh giá tiềm năng gió ở độ cao 80m được thể hiện như trong bảng dưới.

Nguồn: Thông tin về năng lượng gió Việt Nam – Dự án năng lượng gió GIZ, 2011

Nói chung, tiềm năng năng lượng gió Việt Nam qua số liệu đánh giá còn chênh lệch nhau do quy mô và mức độ nghiên cứu có khác nhau. Tuy nhiên, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng lớn về nguồn năng lượng này.

Nguồn năng lượng mặt trời

Tiềm năng năng lượng mặt trời có thể khai thác được căn cứ vào bức xạ mặt trời. Việt Nam là khu vực có bức xạ mặt trời hàng năm tương đối lớn và ổn định, đặc biệt là các khu vực Cao nguyên Miền Trung, duyên hải miền Trung và Miền Nam, Đồng bằng sông Cửu Long. Tính trung bình toàn quốc thì năng lượng bức xạ mặt trời là 4-5kWh/m2 mỗi ngày. Theo đánh giá, những vùng có số giờ nắng từ 1800 giờ/năm trở lên thì được coi là có tiềm năng để khai thác sử dụng. Đối với Việt Nam, tiêu chí này phù hợp với nhiều vùng, nhất là các tỉnh phía Nam. Tiềm năng lý thuyết điện mặt trời tại Việt Nam được dự tính như bảng sau:

Nguồn: Trung tâm số liệu khí tượng thủy văn, 2014

Khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên có tiềm năng điện mặt trời cao nhất do có diện tích đất và tổng xạ mặt trời cao nhất nước.

Theo GreenID tiềm năng có thể khai thác cho sản xuất điện năng từ năng  lượng mặt  trời  tại Việt Nam ước tính khoảng 13.000 MW. Trong khi đó, tổng công suất lắp đặt pin mặt trời để sản xuất điện mới chỉ khoảng 5 MW vào năm 2015, chủ yếu cho mục đích nghiên cứu và điện khí hóa nông thôn.

Triển vọng cho sản xuất điện từ năng lượng tái tạo

Cơ cấu các nguồn điện cho giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn 2030 đã được đề ra trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh và được tóm tắt ở bảng 4. Theo đó, điện năng sản xuất từ các nguồn NLTT chiếm 6,5% đến năm 2020; đến năm 2030 con số này tăng lên là 10,7%.

Nguồn: Quyết định số 428/QĐ-TTg, 2016

Khi tỷ lệ điện sản xuất từ NLTT gia tăng do suất đầu tư cho điện gió và điện mặt trời giảm mạnh theo xu thế hiện nay thì tỷ lệ công suất nguồn điện từ NLTT hoàn toàn là khả thi theo như quy hoạch đã đưa ra. Theo tính toán sơ bộ thì thậm chí tỷ lệ NLTT có thể được tăng lên đến 12,6% vào năm 2030 khi đảm bảo một số điều kiện ràng buộc nhất định.

Đồng thời, khi các thị trường toàn cầu và khu vực về công nghệ năng lượng mặt trời, năng lượng gió phát triển, quy mô thị trường tăng lên sẽ mang lại cơ hội để nâng cao hiệu quả của chuỗi cung ứng, qua đó suất đầu tư còn có cơ hội giảm sâu. Mặc dù trong quy hoạch điện Việt Nam cũng đã có tính đến sự tham gia của NLTT trong phát điện, nhưng vẫn chưa xét cụ thể cơ cấu từng nguồn năng lượng tái tạo. Việc xây dựng quy hoạch vì vậy cần phải có nhiều dữ liệu chi tiết hơn và phải được thu thập, phân tích một cách có hệ thống để xác định cụ thể và chính xác tiềm năng các nguồn NLTT, xu thế công nghệ cũng như sự đánh đổi của các lựa chọn chính sách. Điều này đặc biệt quan trọng vì xu hướng giảm nhanh chi phí sản xuất điện từ NLTT trong tương lai. Đặc biệt, chi phí sản xuất điện từ NLTT cần được so sánh với chi phí sản xuất từ các nguồn năng lượng hóa thạch khi tính đầy đủ những chi phí ngoại biên liên quan đến cảnh quan bị phá hủy, sức khỏe con người và sinh kế bị ảnh hưởng, cũng như môi trường bị ô nhiễm.